Bài viết này tập trung vào sự kỷ niệm đặc biệt của học sinh lớp 6 về buổi học cuối cùng tại trường. Chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về 6 bài soạn đáng nhớ nhất về chủ đề này của tác giả An-phông-xơ Đô-đê. Những tác phẩm này không chỉ là những câu chuyện học đường đơn thuần, mà còn chứa đựng những thông điệp sâu sắc về tình bạn, nỗi vui, nỗi buồn, và những bài học quý giá trong cuộc sống. Hãy cùng khám phá và tận hưởng những dòng văn tinh tế, những trang viết đầy cảm xúc, và những hình ảnh sống động trong những bài soạn này.
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 1
Tìm hiểu tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
– An-phông-xơ Đô-đê (1840 – 1897) nhà văn Pháp, tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng.
– Văn chương của ông nhẹ nhàng, trong sáng, diễn tả cảm động những nỗi đau và tình thương, đặc biệt là tình yêu quê hương, đất nước.
– Ông là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng: “Một thời niên thiếu”, “Những cuộc phiêu lưu kỳ diệu của Tactaranh ở Taraxcông”,…
2. Tác phẩm
– Truyện Buổi học cuối cùng lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Phổ là tên của một nước chuyên chế trong lãnh thổ Đức trước đây. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học bằng tiếng Đức. Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát.
– Bố cục truyện chia làm 3 phần:
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “… vắng mặt con”): Điểm khác đầu tiên trước khi Phrăng đến lớp.
+ Đoạn 2 (tiếp đến “… buổi học cuối cùng này”): buổi học cuối cùng và cảm xúc của tất cả mọi người.
+ Đoạn 3 (còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng.
3. Tóm tắt truyện
Câu chuyện về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp đầy xúc động giữa thầy trò và người dân ở vùng đất bị quân Phổ chiếm đóng. Theo lời kể của cậu bé Phrăng ham chơi, không khí của buổi học hôm ấy thật khác lạ, thấm đẫm tình yêu tiếng nói dân tộc.
Một buổi sáng – như thường lệ, cậu bé Phrăng đến lớp. Dọc đường cậu thấy có những điều khác hẳn mọi hôm. Phrăng vào lớp càng thấy ngạc nhiên hơn. Thầy Ha-men ăn mặc tề chỉnh như trong ngày lễ. Thầy không quở mắng mà còn nói với Phrăng bằng giọng dịu dàng. Không khí trong lớp trang trọng. Cuối lớp có cụ già Hô-de, bác phát thư và nhiều người khác. Hoá ra đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Phrăng ân hận vì mình đã không thuộc bài – nhất là khi thầy Ha-men giảng bài học cuối cùng thật xúc động. Kết thúc buổi học thầy Ha-men viết lên bảng dòng chữ thể hiện lòng yêu nước của mọi người: “Nước Pháp muôn năm”.
Đọc – hiểu
1 – Trang 54 SGK
Câu chuyện được kể diễn ra trong hoàn cảnh, thời gian, địa điểm nào? Em hiểu như thế nào về tên truyện Buổi học cuối cùng?
Câu chuyện kể về lớp học vùng An-dát của nước Pháp vì thua trận phải cắt cho quân Phổ. Từ đây, quân Phổ ra lệnh không cho phép dạy tiếng Pháp – tiếng mẹ đẻ nữa, thay vào đó là tiếng Đức. Buổi học cuối cùng ở đây có nghĩa là buổi dạy và học cuối được học tiếng mẹ đẻ của những người thầy yêu nước và những học sinh.
2 – Trang 55 SGK
Truyện được kể theo lời của nhân vật nào, thuộc ngôi thứ mấy? Truyện còn có những nhân vật nào nữa và trong số đó, ai gây cho em ấn tượng nổi bật nhất?
– Truyện được kể theo lời nhân vật Phrăng, ngôi thứ nhất.
– Truyện có những nhân vật : phó rèn Oát-stơ và cậu học việc, cụ già Hô-de, bác phát thư, dân làng, thầy Ha-men, các học sinh.
– Ấn tượng nhất là thầy Ha-men : tình yêu to lớn với nghề giáo – truyền bá tiếng nói dân tộc tới các thế hệ.
3 – Trang 55 SGK
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã thấy có gì khác lạ trên đường đến trường, quang cảnh ở trường và không khí trong lớp học? Những điều đó báo hiệu việc gì đã xảy ra?
– Sáng ngày diễn ra buổi học, trên đường đến trường : nhiều người đứng trước bảng nhãn cáo thị, lời nói kỳ lạ của bác phó rèn. Quang cảnh ở trường : bình lặng. Trong lớp : thầy mặc lễ phục trang trọng, không mắng giận ai cả, có những người dân ngồi cuối lớp.
– Báo hiệu một điều đáng buồn sẽ đến : sẽ không còn được học tiếng Pháp nữa.
4 – Trang 55 SGK
Ý nghĩ, tâm trạng (đặc biệt là thái độ đối với việc học tiếng Pháp) của chú bé Phrăng diễn biến như thế nào trong buổi học cuối cùng?
– Trước khi biết đó là buổi học cuối: cậu bé Phrăng ham chơi, lười học.
– Nghe thầy thông báo: thấy tiếc nuối, ân hận vì mình đã lười học.
– Thầy gọi lên đọc: xấu hổ, ân hận, ước mình có thể đọc to rõ, không bị lỗi.
– Kết thúc buổi học: buồn bã, xúc động trước thầy giáo. Thêm tình yêu tiếng Pháp.
5 – Trang 55 SGK
Nhân vật thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùng đã được miêu tả như thế nào? Để làm rõ điều đó, em hãy tìm các chi tiết miêu tả nhân vật này về các phương diện:
– Trang phục;
– Thái độ đối với học sinh;
– Những lời nói về việc học tiếng Pháp;
– Hành động, cử chỉ lúc buổi học kết thúc.
Nhân vật thầy Ha-men gợi ra ở em cảm nghĩ gì?
– Trang phục: nghiêm chỉnh, trang trọng với chiếc áo rơ – đanh – gốt xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn, mũ tròn bằng lụa đen.
– Thái độ với học sinh: nhẹ nhàng, không quát mắng, kiên nhẫn.
– Lời nói về việc học tiếng Pháp: ca ngợi, coi tiếng Pháp là chìa khóa chốn lao tù để vượt ngục nô lệ.
– Lúc buổi học kết thúc: thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, dồn hết tình yêu vào dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”.
6 – Trang 55 SGK
Hãy tìm một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh và chỉ ra tác dụng của những so sánh ấy.
Câu văn so sánh :
– tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố.
– dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.
– … chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù.
– Những tờ mẫu … như những lá cờ nhỏ …
– … một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp.
*Tác dụng: tạo hình tượng, sự sinh động, tăng sức gợi hình gợi cảm để thể hiện tình cảm của tác giả.
7* – Trang 55 SGK
Trong truyện, thầy Ha-men có nói: “…khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”. Em hiểu như thế nào và có suy nghĩ gì về lời nói ấy?
Đây chính là một lời khẳng định sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc, yêu quý, học tập tiếng nói dân tộc là góp phần mở cửa tù lao thoát khỏi ách áp bức.
Luyện tập
1 – Trang 56 SGK
Kể tóm tắt lại truyện Buổi học cuối cùng.
Như thường lệ, buổi sáng hôm ấy cậu bé Phrăng đến lớp học, trên đường đi cậu thấy có rất nhiều sự khác lạ so với mọi hôm, cả khi vào trường cũng vậy, sân trường bỗng dưng yên ắng như một ngày chủ nhật.
Bước vào lớp cậu càng ngạc nhiên hơn vì thấy mọi người im phăng phắc, thầy Ha-men ăn mặc rất trang trọng, trong lớp lại còn có cả các cụ già cùng đến học. Qua lời nói xúc động của thầy giáo, cậu mới hiểu rằng hôm nay là buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
Phrăng vô cùng ân hận vì sự ham chơi trước đây của mình, xấu hổ vì mình đã không đọc được bài như mong muốn. Thầy Ha-men nói về vẻ đẹp của tiếng Pháp về sự quý giá của tiếng nói dân tộc, ai nấy đều xúc động thiêng liêng… Cuối buổi học thầy giáo Ha-men viêt lên bảng dòng chữ “Nước Pháp muôn năm”.
2 – Trang 56 SGK
Viết một đoạn văn miêu tả nhân vật thầy Ha-men hoặc chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
– Miêu tả thầy Ha-men: chú ý về trang phục, lời nói, thái độ, hành động mọi ngày và trong buổi học cuối.
– Chú bé Phrăng: suy nghĩ, tâm trạng của cậu trước khi đến lớp, khi ngồi học, quan sát thầy và tưởng tượng…
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 2
Giải câu 1, 2, 3, 4, 5 trang 29 Sách bài tập (SBT) Ngữ văn 6 tập 2. 1. Mấy dòng đầu truyện Buổi học cuối cùng tả những điều chú bé Phrăng nghe và thấy trên đường đi học cùng ý nghĩ của em.
Bài tập
1. Mấy dòng đầu truyện Buổi học cuối cùng tả những điều chú bé Phrăng nghe và thấy trên đường đi học cùng ý nghĩ của em. Những chi tiết ấy có ý nghĩa như thế nào với việc thể hiện nhân vật Phrăng trong tác phẩm?
2. Khi mới bước vào lớp học, điều gì làm cho Phrăng ngạc nhiên hơn cả ? Điều đó đã có tác dụng như thế nào đối với Phrăng?
3. “Thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ (…) thế giới, (…) nhất, (…) nhất : phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn (…) tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…”.
a) Hãy điền chính xác những từ còn để trống trong các ngoặc đơn.
a) Câu in nghiêng đã dùng phép so sánh. Hãy chỉ ra vế được so sánh, vế dùng để so sánh và từ so sánh.
b) Nên hiểu “nắm được chìa khoá chốn lao tù” là gì?
c) Về ý nghĩa câu in nghiêng, trong hai cách lí giải sau đây, em cho cách lí giải nào sâu sắc và đầy đủ hơn ?
A – Tiếng nói là công cụ giao tiếp, nhờ tiếng nói của dân tộc mới có thể dựa vào đó mà liên lạc với nhau và tổ chức đấu tranh để giành lại độc lập.
B – Dùng tiếng nói thống nhất là một đặc điểm chủ yếu của dân tộc. Giữ vững được tiếng nói thì sẽ không bao giờ quên Tổ quốc, sẽ luôn ấp ủ nhiệt tình yêu nước, từ đó sẽ dấy lên những cuộc đấu tranh giành lãnh thổ đã mất và bảo vệ được truyền thống văn hoá thiêng liêng của dân tộc.
4. Có điều gì khác thường trong những động tác và lời nói của thầy Ha-men ở cuối truyện ? Những chi tiết đó cho thấy điều gì ở thầy Ha-men?
5. Tên của truyện thường có liên hệ mật thiết với nội dung và chủ đề của tác phẩm. Trong ba cách lí giải tên truyện Buổi học cuối cùng dưới đây, em tán thành cách nào?
a) Tên truyện đã khái quát được đầy đủ nội dung tác phẩm.
b) Tên truyện vừa khái quát được nội dung chủ yếu của tác phẩm lại vừa thể hiện được một cách sâu sắc chủ đề của tác phẩm.
c) Tên truyện đã thể hiện được một cách rõ ràng và trực tiếp chủ đề tác phẩm.
Gợi ý làm bài
Câu 1. Mấy dòng đầu truyện Buổi học cuối cùng cho thấy Phrăng là một chú bé ham chơi, lười học. Không chỉ vậy, Phrăng còn bị “cám dỗ” khi thấy “lính Phổ đang tập”, không biết chúng là kẻ thù của dân tộc.
Một em bé có tính cách và nhận thức như thế mà rốt cuộc không khí đặc biệt của “buổi học cuối cùng” đã cải biến và cảm hoá em, đã làm cho em thay đổi cơ bản về tư tưởng, tình cảm đối với đất nước, quê hương cũng như về thái độ học tập, thái độ đối với tiếng mẹ đẻ.
Câu 2. Khi mới bước vào lớp học, Phrăng ngạc nhiên về thái độ “dịu dàng” của thầy Ha-men với mình (đáng lẽ phải quở trách vì em đến lớp muộn), về cách ăn mặc trang trọng của thầy,… song điều làm cho em ngạc nhiên nhất là thành phần dự lớp.
Đây hầu như không còn là lớp học nữa mà là một cuộc họp hoặc mít-tinh, không chỉ có học sinh mà gần đủ đại diện các tầng lớp dân làng (cụ già, bác đưa thư, cụ xã trưởng). Ai cũng “lặng lẽ”, “buồn rầu”; chi tiết đặc biệt làm cho Phrăng chú ý nhất là cụ xã trưởng Hô-de – hẳn là người đọc thông viết thạo – vẫn “mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách”.
Không khí trang nghiêm ấy đã tạo cho Phrăng một tâm thế đặc biệt, tạo cơ sở thuận lợi cho sự cho sự chuyển biến tư tưởng, tình cảm nhanh chóng của Phrăng.
Câu 3.
b) – Vế được so sánh: (giữ vững) tiếng nói (của mình);
– Vế dùng để so sánh: (nắm được) chìa khoá (chốn lao tù);
– Từ so sánh: chẳng khác gì.
c) Nên hiểu “nắm được chìa khoá chốn lao tù” là đập tan gông xiềng nô lệ, đánh đuổi quân xâm lược, giành lại nền độc lập, tự chủ của đất nước, dân tộc mình.
d) Cách lí giải ở mục B.
Câu 4. Em hãy đọc kĩ đoạn cuối của truyện để thấy được hoàn cảnh và những động tác, cử chỉ khác thường của thầy Ha-men.
Tiếng chuông nhà thờ điểm 12 tiếng và tiếng kèn của bọn lính Phổ đột ngột vang lên như báo hiệu giờ phút kết thúc của buổi học, cũng là giờ phút chấm dứt việc dạy và học bằng tiếng Pháp ở cả vùng. Ở vào thời điểm ấy, nỗi đau đớn, sự xúc động trong lòng thầy Ha-men đã lên tới cực điểm và bộc lộ ra những cử chỉ khác thường : người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu, dồn tất cả sức mạnh viết lên bảng câu “Nước Pháp muôn năm !”, rồi như đã kiệt sức, đầu dựa vào tường, giơ tay ra hiệu cho học sinh.
Qua sự khác thường trong cử chỉ, cảm xúc và hành động của thầy Ha-men, em nhận ra được điều gì ở thầy? (lòng yêu nước, sự yêu quý tiếng nói dân tộc, nỗi đau xót trước việc tiếng Pháp bị cấm dạy trong nhà trường,…)
Câu 5. Cách lí giải ở mục b.
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 3
Trả lời câu 1 (trang 54 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Câu chuyện Buổi học cuối cùng được kể diễn ra trong hoàn cảnh, thời gian địa điểm nào? Em hiểu như thế nào về tên truyện Buổi học cuối cùng?
Lời giải chi tiết:
Truyện kể về buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng ở lớp học của thầy Ha- men tại một trường làng trong vùng An- dát. Đó là thời kì sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, nước Pháp thua trận, phải cắt hai vùng An-dát và Lo- ren cho Phổ. Các trường học ở hai vùng này, theo lệnh của chính quyền Phổ, không được tiếp tục dạy tiếng Pháp. Chính vì vậy tác giả đặt tên truyện là Buổi học cuối cùng.
Trả lời câu 2 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Truyện được kể theo lời của nhân vật nào, thuộc ngôi thứ mấy? Truyện có những nhân vật nào nữa và trong số đó, ai gây cho em ấn tượng nổi bật nhất?
– Truyện được kể theo lời của nhân vật Phrăng- một học sinh lớp thầy Ha-men. Truyện kể ở ngôi thứ nhất.
– Trong truyện còn có thầy Ha-men và một số nhân vật phụ xuất hiện thoáng qua không được miêu tả kĩ. Nhân vật Phrăng gây cho em ấn tượng nổi bật nhất.
Trả lời câu 3 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng thấy có gì khác lạ trên đường đến trường, quang cảnh ở trường và không khí trong lớp học? Những điều đó báo hiệu việc gì đã xảy ra?
– Những điều khác là trên đường đến trường: khi qua trụ sở xã, Phrăng thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che.
– Quang cảnh ở trường bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật.
– Phrăng đến lớp muộn nhưng không hề bị thầy giáo quở trách.
– Phía cuối lớp, dân làng ngồi lặng lẽ, có cả các cụ già đến dự buổi học, ai cũng có vẻ buổn rầu.
=> Những điểu đó báo hiệu rằng buổi học này không phái là buổi học bình thường như mọi khi, nó có sự bất thường xảy ra: Buổi học cuối cùng.
Trả lời câu 4 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
*Ý nghĩ tâm trạng của Phrăng:
– Choáng váng, sững sờ khi nghe thầy Ha- men cho biết đây là buổi học cuối cùng.
– Cậu thấy nuối tiếc và ân hận về sự lười nhác học tập, ham chơi của mình lâu nay.
– Sự ân hận đã trở thành nỗi xấu hổ, tự giận minh.
– Kinh ngạc khi nghe thầy Ha- men giảng ngữ pháp, cậu thấy hiểu đến thế. “ Tất cả những điều thầy nói, tôi đều thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế…”
*Phrăng đã nghe và hiểu được những lời nhắc nhở tha thiết nhất cùa thầy Ha-men, nhận thức và tâm trạng của cậu đã có những biến đổi sâu sắc. Phrăng đã hiểu được ý nghĩa thiêng liêng của việc học tiếng Pháp và tha thiết muốn được học tập, nhưng đã không còn cơ hội để được tiếp tục học tiếng Pháp ở trường nữa.
Trả lời câu 5 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Nhân vật thầy giáo Ha – men trong buổi học cuối cùng đã được miêu tả như thế nào? Để làm rõ điều đó, em hãy tìm các chi tiết miêu tả nhân vật này. Nhân vật thầy Ha – men gợi ra ở em cảm nghĩ gì?
Thầy Ha – men trong buổi học cuối cùng:
– Trang phục: chiếc mũ lụa đen thêu, áo rơ -đanh- gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn – những thứ trang phục chỉ dùng trong những buổi lễ trang trọng.
– Thái độ đối với học sinh: Lời lẽ dịu dàng, nhắc nhở nhưng không trách mắng Phrăng khi cậu đến muộn và cả khi cậu không thuộc bài; nhiệt tình và kiên nhẫn giảng bài như muốn truyền hết mọi hiểu biết của mình cho học sinh trong buổi học cuối cùng.
– Điều tâm niệm tha thiết nhất mà thầy Ha- men muốn nói với học sinh và mọi người trong vùng An-dát là hãy yêu quý, giữ gìn và trau dồi cho mình tiếng nói, vì đó là một biểu hiện của tình yêu nước.
– Đặc biệt cảm động là hình ảnh thầy Ha-men ở những giây phút cuối cùng của buổi học… nỗi đau đớn và xúc động trong lòng thầy đã lên tới cực điểm khiến người tái nhợt … thầy nghẹn ngào không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: Nước Pháp muôn năm! ”
=> Như vậy cùng với nhân vật Phrăng, nhân vật thầy giáo Ha-men đã góp phần thể hiện chủ đề và tư tưởng tác phẩm một cách trực tiếp và sâu sắc. vẻ đẹp của ông được hiện ra qua cặp mắt nhìn khâm phục và biết ơn của chú học trò Phrăng bằng lời kể chân thành và xúc động về buổi học cuối cùng không thể nào quên.
Trả lời câu 6 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Hãy tìm một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh và chỉ ra dụng của những so sánh ấy
Những câu văn có hình ảnh so sánh:
– Tiếng ồn ào như chợ vỡ.
– Mọi sự đểu bình lặng y như buổi sáng chủ nhật.
– … thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy (hình ảnh so sánh này nói lên sự lưu luyến của thầy đối với ngôi trường) …
– “… Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ được tiếng nói của họ thì chẳng khác nào nắm dược chìa khóa chốn lao tù” (Khẳng định ý nghĩa quan trọng của tiếng nói dân tộc đối với độc lập của đất nước).
Trả lời câu 7 (trang 55 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Trong truyện, thầy Ha – men có nói: “ … khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…” Em hiểu như thế nào và có suy nghĩ gì về lời nói ấy?
Câu nói của thầy Ha-men đã nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đắp bằng sự sáng tạo của bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói của dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ, bởi tiếng nói không chỉ là tài sản quý báu của dân tộc mà nó còn là phương tiện quan trọng để đấu tranh giành lại độc lập, tự do.
LUYỆN TẬP
Trả lời câu 1 (trang 56 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Trả lời:
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
Trả lời câu 2 (trang 56 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Viết một đoạn văn miêu tả thầy Ha-men hoặc chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
Buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp – pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Thầy Ha – men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ.
Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giờ từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha – men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha – men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc.
Bố cục
Bố cục: 3 đoạn
– Đoạn 1 (Từ đầu … đến “mà vắng mặt con”): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
– Đoạn 2 (Tiếp theo … đến “buổi học cuối cùng này”): Diễn biến của buổi học cuối cùng.
– Đoạn 3 (Còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng.
Nội dung chính
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng, Phrăng hiện lên là một chú bé hiếu động, thông minh, nhạy cảm, có tình yêu chân thành với người thầy, yêu nước sâu sắc.
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 4
A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM:
1. Tác giả:
An-phông-xơ Đô-đê (1840 – 1897).
Là nhà văn Pháp, tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng.
2. Tác phẩm:
Buổi học cuối cùng
Bối cảnh ra đời: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thu trận, hai vùng An-đát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Phổ là tên của một nước chuyên chế trong lãnh thổ Đức trước đây. Cho nên ở hai vùng này bị buộc học bằng tiếng Đức.
3. Tóm tắt tác phẩm:
Câu chuyện kể về một buổi sáng – như thường lệ, cậu bé Phrăng đến lớp. Dọc đường cậu thấy có những điều khác hẳn mọi hôm. Phrăng vào lớp càng thấy ngạc nhiên hơn. Thầy Ha-men ăn mặc tề chỉnh như trong ngày lễ. Thầy không quở mắng mà còn nói với Phrăng bằng giọng dịu dàng. Không khí trong lớp trang trọng. Cuối lớp có cụ già Hô-de, bác phát thư và nhiều người khác. Hoá ra đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Phrăng ân hận vì mình đã không thuộc bài – nhất là khi thầy Ha-men giảng bài học cuối cùng thật xúc động. Kết thúc buổi học thầy Ha-men viết lên bảng dòng chữ thể hiện lòng yêu nước của mọi người: “Nước Pháp muôn năm”.
B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI
Câu 1: Trang 54 sgk ngữ văn 6 tập 2
Câu chuyện được kể diễn ra trong hoàn cảnh nào, thời gian, địa điểm nào? Em hiểu như thế nào về tên truyện Buổi học cuối cùng?
Bài làm:
Hoàn cảnh và thời gian: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870 – 1871 nước Pháp thua trận phải cắt vùng An-dát cho nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, trường học ở đây không được dạy tiếng Pháp nữa.
Địa điểm: Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học ở một trường làng thuộc vùng An-dát của nước Pháp. Tên truyện “Buổi học cuối cùng” là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi học kết thúc niên học.
Câu 2: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Truyện được kể theo lời của nhân vật nào, thuộc nhôn ngữ thứ mấy? Truyện còn có những nhân vật nào nữa và trong số đó ai gây cho em ấn tượng nổi bật nhất?
Bài làm:
Truyện được kể theo nhân vật chú bé Phrăng, đây là ngồi thứ nhất.
=> Cách kể tạo ấn tượng về một câu chuyện có thật, đồng thời cũng thể hiện được tâm trạng, ý nghĩ của nhân vật kể chuyện.
Nhân vật chính là cậu bé phrăng và thầy giáo Ha-men.
Ngoài ra còn có một số nhân vật phụ: cụ Hô-de, các học trò, dân làng…
Nhân vật gây ấn tượng nhất là thầy Ha-men: người đã phụng sự đất nước bốn mươi năm bằng nghề dạy học, người đã thể hiện sâu sắc tình yêu nước Pháp bằng cả tấm lòng.
Câu 3: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã thấy có gì khác lạ trên đường đến trường, quang cảnh trường và không khí trong lớp học? Những điều đó báo hiệu việc gì đã xảy ra?
Bài làm:
Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã nhìn thấy những điều khác lạ:
- Trên đường đến trường: có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị.
- Trường học không ồn ào với những âm thanh quen thuộc mà “Bình lặng như một buổi sáng chủ nhật”.
- Trong lớp không khí trang trọng, thầy Hamen mặc lễ phục, thầy dịu dàng chứ không giận dữ.
- Có thêm cụ Hôde, bác phát thư và nhiều người dân làng ngồi ở cuối lớp.
=> Những điều đó báo hiệu đây là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng như là điều được niêm yết ở trụ sở xã.
Câu 4: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Ý nghĩa, tâm trạng (đặc biệt là thái độ đối với việc học tiếng Pháp) của chú bé Phrăng diễn biến như thế nào trong buổi học cuối cùng?
Bài làm:
Với việc học tiếng Pháp Phrăng rất ngại, cậu bé thích rong chơi hơn là học những quy tắc phân từ. Nhưng khi nghe thầy Ha-men thông báo đây là buổi học cuối cùng, thái độ của Phrăng:
- Lúc đầu thấy choáng váng vì đột ngột.
- Thấy tiếc nuối vì mình mới chỉ biết viết tiếng Pháp “tập toạng”.
- Thấy ân hận về sự lười học, ham chơi của mình.
- Từ không thích, cậu bỗng cảm thấy thân thiết với các cuốn sách tiếng Pháp như “người bạn cố tri”.
- Phrăng thấy bài giảng của thầy rất dễ hiểu. Cậu thấy yêu mến người thầy giáo nghiêm khắc Hamen.
- Từ việc ngại, sợ tiếng Pháp và thầy giáo, Phrăng chăm chú, thích thú, cố gắng học tiếng Pháp một cách tự giác.
Câu 5: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Nhân vật thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùng đã được miêu tả như thế nào? Để làm rõ điều đó, em hãy tìm các chi tiết miêu tả nhân vật này về các phương diện:
- Trang phục;
- Thái độ đối với học sinh;
- Những lời nói về việc học tiếng Pháp;
- Hành động, cử chỉ lúc buổi học kết thúc.
Nhân vật Ha-men gợi ra ở em cảm nghĩ gì?
Bài làm:
Nhân vật thầy giáo Hamen trong buổi học cuối cùng:
- Trang phục: Thầy mặc bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu.
- Thái độ đối với học sinh: dịu dàng, không giận dữ quát mắng; kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo.
- Những lời nói về việc học tiếng Pháp: ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khóa của chốn lao tù.
- Hành động, cử chỉ lúc buổi học kết thúc: thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu, nhưng thầy đã dồn hết sức mạnh để viết lên bảng dòng chữ thật to: “Nước Pháp muôn năm”.
=> Cuối cùng, Thầy Hamen là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và người yêu nước sâu sắc, nhân vật thầy giáo Ha-men đã góp phần thể hiện chủ để và tư tưởng tác phẩm một cách trực tiếp và sâu sắc, vẻ đẹp của ông được hiện ra qua cặp mắt nhìn khâm phục và biết ơn của chú học trò Phrăng bằng lời kể chân thành và xúc động về buổi học cuối cùng không thể nào quên.
Câu 6: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Hãy tìm một số câu văn trong truyện có sử dụng phép so sánh và chỉ ra tác dụng của phép so sánh ây.
Bài làm:
Một số câu văn dùng phép so sánh:
“Tiếng ồn ào như vỡ chợ.”
“Mọi sự đều bình lặng y như buổi sáng chủ nhật.”
“Dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi.”
“… thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh minh như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy.” (hình ảnh so sánh này nói lên sự lưu luyến của thầy đối với ngôi trường) …
“… Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ được tiếng nói của họ thì chẳng khác nào nắm dược chìa khóa chốn lao tù.”
=> Những hình ảnh này có tác dụng:
- làm cho lời văn thêm hình tượng cụ thể, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt, biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc.
- thể hiện rõ nét không khí của buổi học cuối cùng: lúc thì ồn ào, lúc thì lặng yên.
- thể hiện tâm trang lưu luyến, bịn rịn của các nhân vật, đặc biệt là thầy Ha-men.
Câu 7*: Trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2
Trong truyện, thầy Ha-men có nói: “… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù …”. Em hiểu như thế nào và có suy nghĩ gì về lời nói ấy?
Bài làm:
Câu nói của thầy Ha-men “… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa của chốn lao tù…”. Câu nói này chính là chân lí của cả câu chuyện. Nó khẳng định và làm nổi bật giá trị thiêng liêng, sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Tiếng nói của dân tộc được hình thành và vun đáp bầng sự sáng tạo cùa bao thế hệ qua hàng ngàn năm, là thứ tài sản vô cùng quý báu của mỗi dân tộc. Vì vậy phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để nắm vững tiếng nói cùa dân tộc mình, nhất là khi đất nước rơi vào vòng nô lệ.
Luyện tập
Bài tập 2 – trang 56 SGK Ngữ Văn 9 tập 2
VIết một đoạn văn miêu tả nhân vật thầy Ha – men hoặc chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp
Bài làm:
Buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp – pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Thầy Ha – men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giờ từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha – men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha – men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc.
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 5
I. Đôi nét về tác giả: An-phông-xơ Đô-đê (1840 – 1897)
– Quê quán: Nimes, miền Nam nước Pháp
– Cuộc đời:
- Tuổi thơ lận đận khi xí nghiệp của cha bị phá sản và bố mẹ ly hôn
- Ông thôi học khi đang học trung học và bắt đầu lập nghiệp tại Paris khi mới 12 tuổi
– Sự nghiệp sáng tác:
- Ông bắt đầu sáng tác khi mới 14 tuổi và tiếp tục sáng tác bền bỉ trong suốt cuộc đời
- Các tác phẩm của ông được dân chúng đón nhận nhiệt tình và thành công vang dội
- Ông sáng tác ở nhiều thể loại và đều có thành tựu đáng kể, đặc biệt là thơ và tiểu thuyết
- Tác phẩm tiêu biểu: Thằng nhóc con, Những lá thư từ cối xay của tôi, Fromont cháu trẻ và cụ Riler, Tartarin vùng Tarascon…
II. Đôi nét về tác phẩm Buổi học cuối cùng
1. Xuất xứ
Tác phẩm Buổi học cuối cùng (Chuyện của một em bé người An-dát) là 1 truyện ngắn nằm trong tuyển tập truyện Truyện kể ngày thứ hai của nhà văn An-phông-xơ Đô-đê.
2. Bối cảnh
Truyện “Buổi học cuối cùng” lấy bối cảnh từ một biến cố lịch sử: Sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ năm 1870-1871, nước Pháp thua trận, hai vùng An-dát và Lo-ren giáp biên giới với Phổ bị nhập vào nước Phổ. Cho nên các trường học ở hai vùng này bị buộc học tiếng Đức. Truyện viết về buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở một trường làng thuộc vùng An-dát.
3. Thể loại
– Truyện ngắn
4. Phương thức biểu đạt
– PTBĐ tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
5. Ngôi kể
– Ngôi thứ nhất, xưng tôi
– Tác dụng: giúp cho những hình ảnh, tình cảm trong câu chuyện được kể trở nên chân thực hơn, sống động hơn, truyền cảm hơn và dễ dàng lay động trái tim độc giả.
6. Tóm tắt văn bản Buổi học cuối cùng
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
7. Bố cục văn bản Buổi học cuối cùng
– Gồm 3 phần:
- Phần 1: Từ đầu → “mà vắng mặt con”: Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường trước buổi học qua sự quan sát của Phrăng
- Phần 2: “Tôi bước qua ghế dài” → “nhớ mãi buổi học cuối cùng này”: Diễn biến buổi học cuối cùng và tâm trạng của mọi người
- Phần 3: Phần còn lại: Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng
8. Giá trị nội dung văn bản Buổi học cuối cùng
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng và hình ảnh cảm động của thầy Ha-men, truyện đã thể hiện lòng yêu nước trong một biểu hiện cụ thể là tình yêu tiếng nói của dân tộc và nêu chân lí: “Khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù…”
9. Giá trị nghệ thuật văn bản Buổi học cuối cùng
– Khắc họa nhân vật qua việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ, lời nói và tâm trạng
– Ngôi kể thứ nhất, làm cho câu chuyện trở nên sinh động, chân thực, hấp dẫn
– Ngôn ngữ tự nhiên với giọng kể chân thành, xúc động, truyền cảm
10. Ý nghĩa nhan đề
Nhan đề Buổi học cuối cùng đã hé lộ nội dung của tác phẩm – kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng của người dân Pháp ở vùng An-dát. Đồng thời đó cũng là một lời thông báo, tuyên bố đầy xót xa, cay đắng cho người dân xứ An-dát, rằng từ bây giờ họ – những người con nước Pháp sẽ không còn được học tiếng Pháp nữa.
III. Trả lời câu hỏi
Câu 1 (trang 54 sgk ngữ văn 6 tập 2):
Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học thuộc vùng An-dát ở nước Pháp, sau cuộc chiến tranh Pháp- Phổ, nước Pháp thua phải cắt vùng An-dat cho Phổ.
– Tên tác phẩm: có nghĩa là buổi học cuối cùng học bằng tiếng Pháp.
Câu 2 (trang 54 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Truyện được kể theo lời nhân vật Phrang, ngôi thứ nhất
– Các nhân vật khác trong truyện: bác phó rèn Oát-sto, các cậu học việc, cụ già Hô-de, bác phát thư, người dân làng, thầy giáo Ha-men, người em gái thầy giáo, học sinh
– Nhân vật thầy giáo ấn tượng, nổi bật nhất, người đã dạy học suốt bốn mươi năm, người thể hiện tình yêu nước pháp bằng cả tấm lòng.
Câu 3 (trang 49 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Vào sáng diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrang nhìn thấy điều khác lạ:
+ Có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị
+ Trường học không ồn ào như thường ngày mà “bình lặng”
+ Không khí trong lớp trang trọng, Ha-men mặc lễ phục, thầy dịu dàng không giận dữ
+ Có thêm cụ Hô-de, bác phát thư, và người dân làng ngồi trong lớp
=> Báo hiệu buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, điều được niêm yết ở trụ sở xã
Câu 4 (trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Đối với việc học tiếng Pháp, Phrang rất ngại, chú bé thích rong chơi hơn là học những quy tắc phân từ
– Khi không thuộc bài, Phrang rất ân hận
+ Cậu bé ước có thể đọc tiếng Pháp “thật to, dõng dạc, không vi phạm một lỗi nào”
+ Cậu cảm thấy cuốn sách tiếng Pháp như “người bạn cố tri”
+ Thấy bài giảng của thầy dễ hiểu, cậu yêu mến thầy nghiêm khắc Ha-men
=> Buổi học cuối cùng đã khiến cho Phrang thay đổi hoàn toàn thái độ, tình cảm và suy nghĩ: ham thích học tiếng Pháp hơn.
Câu 5 (trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Nhân vật thầy giáo Ha-men được miêu tả:
+ Trang phục: mặc bộ lễ phục
+ Thái độ với học sinh: dịu dàng, ân cần
+ Những lời nói đối với việc học tiếng Pháp: ca ngợi tiếng Pháp (tiếng Pháp là vũ khí), tự phê bình mình và mọi người đã có lúc sao nhãng việc học tập và tiếng Pháp.
+ Hành động, cử chỉ lúc kết thúc buổi học: thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói hết được câu. Thầy viết “ Nước Pháp muôn năm”
=> Thầy Ha-men là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là người yêu nước sâu sắc.
Câu 6 (trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Một số câu văn trong truyện có sử dụng biện pháp so sánh:
+ Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào… như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố.
+ … dân làng ngồi lặng lẽ… và nhiều người khác nữa.
+…, chừng nào họ vẫn giữ tiếng nói… chìa khóa chốn lao tù.
+ Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp.
+…, chúng ta đang cặm cụi vạch… đó cũng là tiếng Pháp.
=> Những câu so sánh này khiến cho sự biểu đạt cụ thể, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt tình cảm, tư tưởng sâu sắc của tác giả.
Câu 7 (trang 55 sgk ngữ văn 6 tập 2)
Trong truyện, thầy Ha-men có nói: “…khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ… chẳng khác gì nắm được chìa khóa chốn lao tù”
– Đây là câu nói của người yêu tiếng Pháp- tiếng mẹ đẻ như chính hơi thở, nguồn sống
– Khẳng định giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc
– Còn giữ vững tiếng nói là còn hy vọng đấu tranh giành lại tự do
– Yêu quý, học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc là biểu hiện rõ rệt, sâu sắc của lòng yêu nước.
III. LUYỆN TẬP
Câu 1: Tóm tắt
Câu 2: Viết một đoạn văn miêu tả thầy Ha-men hoặc chú bé Phrăng trong buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp.
Hoặc miêu tả hành động, thái độ, những suy nghĩ,… của cậu bé Phrăng khi chứng kiến cảnh thầy Ha-men phải từ bỏ những giờ lên lớp (nếu là bài viết miêu tả cậu bé Phrăng). Đoạn văn cần miêu tả ngắn ngọn, chỉ nên chú ý và những nét tiêu biểu có khả năng làm nổi bật được tính cách của đối tượng.
Bài soạn” “Buổi học cuối cùng” số 6
I. KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG
Câu 1. Tóm tắt truyện
Chú bé Phrăng định trốn học, rong chơi vì muộn giờ đến lóp và không thuộc bài. Nhưng chú đã cưỡng lại được.
Phrăng chạy vội đến lớp. Dọc đường Phrăng thấy có những điều khác hẳn mọi hôm. Phrăng vào lớp càng thấy ngạc nhiên hơn. Thầy Ha-men ăn mặc tề chỉnh như trong ngày lễ. Thầy không quở mắng mà còn nói với Phrăng bằng giọng dịu dàng. Không khí trong lớp trang trọng. Cuối lớp có cụ già Hô-de, bác phát thư và nhiều người khác. Hoá ra đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng.Phrăng ân hận vì mình đã không thuộc bài.
Thầy Ha-men giảng bài học cuối cùng thật xúc động.
Phrăng thấy chưa bao giờ thầy giảng kiên nhẫn và dễ hiểu đến thế.
Kết thúc buổi học, thầy Ha-men viết lên bảng dòng chữ thể hiện lòng yêu nước của mọi người: “Nước Pháp muôn năm !”.
Câu 2. Thông qua câu chuyện kể của Phrăng về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát bị chiếm đóng, tác giả đã ca ngợi tình yêu tiếng Pháp, tình yêu nước Pháp của những người Pháp. Từ đó gợi ra thái độ đúng đắn đối với ngôn ngữ, thứ của cải quý báu của mỗi dân tộc.
Truyện đã xây dựng thành công nhân vật thầy giáo Ha-men và chú bé Phrăng qua miêu tả ngoại hình, cử chỉ, tâm trạng và lời nói của họ.
II. HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN
Câu 1. Câu truyện được kể diễn ra tại lớp học ở một xã thuộc vùng An-dát của nước Pháp. Thời gian sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, nước Pháp thua trận phải cắt vùng An-dát cho nước Phổ. Theo lệnh của chính quyền Phổ, trường học ở đây không được dạy tiếng Pháp nữa. Buổi học cuối cùng là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng, chứ không phải là buổi học kết thúc niên học.
Câu 2. Truyện được kể theo lời nhân vật chú bé Phrăng, thuộc ngôi thứ nhất. Truyện còn có các nhân vật khác như bác phó rèn Oát-stơ cùng cậu học việc, cụ già Hô-de, bác phát thư, những người dân làng, thầy giáo Ha-men, người em gái của thầy giáo, các em học sinh. Người gây ấn tượng nổi bật nhất là thầy giáo Ha- men, người đã phụng sự đất nước bốn mươi năm bằng nghề dạy học, người đã thể hiện sâu sắc tình yêu nước Pháp bằng cả tấm lòng.
Câu 3. Vào sáng hôm diễn ra buổi học cuối cùng, chú bé Phrăng đã nhìn thấy những điều khác lạ. Trên đường đến trường: có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị. Trường học không ồn ào với những âm thanh quen thuộc mà bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật. Trong lớp, không khí trang trọng, thầy Ha-men mặc lễ phục, thầy dịu dàng chứ không giận dữ. Có thêm cụ Hô-de, bác phát thư và nhiều người dân làng ngồi ở cuối lớp.
Những điều đó báo hiệu đây là buổi học bằng tiếng Pháp cuối cùng như là điều được niêm yết ở trụ sở xã.
Câu 4. Đối với việc học tiếng Pháp, Phrăng rất ngại. Cậu thích rong chơi hơn là học những quy tắc phân từ.
Khi không thuộc bài, Phrăng rất ân hận. Cậu bé mong ước có thể đọc được tiếng Pháp “thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào”. Từ không thích, cậu bỗng cảm thấy thân thiết với các cuốn sách tiếng Pháp như “người bạn cố tri”. Và Phrăng thấy bài giảng của thấy rất dễ hiểu. Cậu thấy yêu mến người thầy giáo nghiêm khắc Ha-men. Từ việc ngại, sợ tiếng Pháp và thầy giáo, Phrăng chăm chú, thích thú, cố gắng học tiếng Pháp một cách tự giác.
Câu 5. Nhân vật thầy giáo Ha-men trong buổi học cuối cùng
– Thầy mặc bộ lễ phục chỉ dùng vào những ngày đặc biệt khi có thanh tra hoặc phát thưởng: Áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục diềm lá sen gấp nếp mịn và đội mũ tròn bằng lụa đen thêu.
– Thầy nói năng với học sinh dịu dàng, không giận dữ quát mắng. Thầy kiên nhẫn giảng bài, chuẩn bị bài học rất chu đáo.
– Thầy ca ngợi tiếng Pháp, tự phê bình mình và mọi người có lúc đã sao nhãng việc học tập và dạy tiếng Pháp. Thầy coi tiếng Pháp là vũ khí, là chìa khoá của chốn lao tù.
– Buổi học kết thúc, thầy xúc động mạnh, người tái nhợt, nghẹn ngào, không nói được hết câu. Thầy đã viết thật to lên bảng: “Nước Pháp muôn năm !”.
– Thầy Ha-men là người yêu nghề dạy học, yêu tiếng mẹ đẻ, và là nguời yêu nước sâu sắc.
Câu 6. Một số câu văn có sử dụng phép so sánh
– Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố… .
– …dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de, trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa.
– …, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…
– Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp.
– …, chúng đang cặm cụi vạch những “nét sổ” với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp…
Những so sánh này làm cho lời văn thêm tính hình tượng cụ thể, tăng sức gợi hình gợi cảm cho sự diễn đạt, biểu hiện tư tưởng, tình cảm sâu sắc.
Câu 7. Câu nói của thầy Ha-men “…khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…”. Câu nói này khẳng định giá trị to lớn của tiếng nói dân tộc. Còn giữ vững tiếng nói là còn phương tiện để đấu tranh giành lại độc lập tự do, thoát khỏi vòng nô lệ. Yêu quý, học tập, giữ gìn tiếng nói của dân tộc là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước.
III. HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP
Câu 1. Muốn kể tóm tắt truyện, cần nắm vững nhân vật và sự việc trong truyện. Hai nhân vật chính là chú bé Phrăng và thầy Ha-men. Các sự việc xung quanh việc học tiếng Pháp trong buổi học cuối cùng. Hãy xem lại mục 1 trong phần I của bài để tập kể.
Câu 2. Trước hết hãy chọn nhân vật để miêu tả là Phrăng hoặc thầy Ha-men. ở trong truyện, thầy Ha-men được tả lại bằng lời của Phrăng. Còn nhân vật Phrăng tự bộc lộ mình qua tâm trạng, ý nghĩ. Khi miêu tả, chú ý nếu tả thầy giáo Ha-men, cần tập trung tả ngoại hình, cử chỉ, lời nói, hành động. Còn đối với Phrăng thì tập trung tả tâm trạng, ý nghĩ.
Câu hỏi thường gặp
Câu hỏi 1: “Buổi học cuối cùng” là bài soạn của tác giả An-phông-xơ Đô-đê lớp 6, đúng không?
Trả lời: Đúng, “Buổi học cuối cùng” là một bài soạn của tác giả An-phông-xơ Đô-đê dành cho học sinh lớp 6.
Câu hỏi 2: Bài soạn này nói về chủ đề gì?
Trả lời: “Buổi học cuối cùng” nói về những cảm xúc và kỷ niệm của học sinh trong buổi học cuối cùng của một khóa học.
Câu hỏi 3: Tại sao bài soạn này gây xúc động?
Trả lời: Bài soạn gây xúc động bởi việc tả lại những cảm xúc, kỷ niệm đáng yêu của học sinh khi phải nói lời chia tay sau khoảng thời gian dài học tập cùng nhau.
Câu hỏi 4: Bài học nào mà tác giả muốn gửi gắm qua bài soạn này?
Trả lời: Tác giả muốn gửi gắm thông điệp về tình bạn, giá trị của những kỷ niệm và sự quý trọng của mỗi buổi học.
Câu hỏi 5: “Buổi học cuối cùng” có những điểm đặc biệt nào so với các bài soạn khác của tác giả?
Trả lời: “Buổi học cuối cùng” có sự đặc biệt trong cách tả cảm xúc chân thực và kỷ niệm đáng yêu của các nhân vật, tạo nên sự xúc động đặc biệt.
Câu hỏi 6: Bạn nào nên đọc bài soạn này?
Trả lời: Bài soạn “Buổi học cuối cùng” phù hợp cho tất cả học sinh, đặc biệt là những người chuẩn bị tốt nghiệp hoặc chia tay bạn bè sau khoảng thời gian học tập cùng nhau.
Kết
Trên những trang giấy, những dòng văn cuối cùng của “Buổi học cuối cùng” chạm đến lòng người. An-phông-xơ Đô-đê đã ghi lại những cảm xúc tươi đẹp nhưng cũng đầy xúc động trong tâm hồn học sinh lớp 6. Những bài học về tình bạn, sự chia tay và những kỷ niệm sẽ mãi được ghi nhớ. Cảm xúc dâng trào, họ nhìn lại quãng đường đã đi và nhận ra rằng, mỗi buổi học là một bài học về cuộc sống. Họ biết rằng, dù có xa nhau, những kỷ niệm đẹp sẽ luôn còn đọng và tạo nên những dấu ấn không thể phai.