Nền văn chương Việt Nam ngày nay đã được điều hành bởi nhiều tài năng nữ xuất sắc, những người góp phần không nhỏ vào sự phát triển và thăng tiến của nghệ thuật và báo chí. Tuy nhiên, việc tìm hiểu về những nhà báo và nhà thơ nữ nổi tiếng tại Việt Nam vẫn còn là một thách thức với nhiều người yêu văn học.

Bạn có muốn khám phá thêm về những cá nhân xuất sắc này và tìm hiểu về tác phẩm và ảnh hưởng của họ đối với văn học Việt Nam không? Hãy cùng chúng tôi đi sâu vào danh sách “Top 5 Nữ Nhà báo và Nhà thơ nổi tiếng nhất tại Việt Nam” để khám phá những người phụ nữ tài năng đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn chương của đất nước.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu về 5 người phụ nữ tài năng, từ nhà báo đầy nhiệt huyết đến những nhà thơ tài ba, thông qua những nét đặc trưng nổi bật của từng người. Đồng thời, chúng tôi sẽ đi sâu vào những tác phẩm đáng chú ý và ảnh hưởng của họ, giúp bạn có cái nhìn toàn diện về vị trí và tầm quan trọng của những tài năng nữ trong ngành văn chương Việt Nam.

Anh Thơ (1921 – 2005)

Nữ sĩ Anh Thơ (1921 – 2005) tại thị trấn Ninh Giang, tỉnh Hải Dương, xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học. Tên thật là Vương Kiều Ân. Ngoài bút danh Anh Thơ được nhiều người biết đến, bà còn nhiều bút danh khác như: Hồng Anh, Tuyết Anh, Hồng Minh. Nét đặc sắc trong thơ của bà là nét đa tình lại đa đoan, cách dùng ngôn từ cũng rất riêng và giản dị, tìm đến cái mộc mạc đời thường.

Anh Thơ sáng tác sớm, năm 17 tuổi đã nhận giải khuyến khích của Tự lực Văn đoàn với tập Bức tranh quê. Sau đó bà tham gia viết bài cho báo Đông Tây và một vài báo khác. Giữa lúc phong trào “Thơ mới” đang diễn ra sôi nổi, bà đã tìm đến thơ và tự khẳng định giá trị của người phụ nữ trong xã hội đuơng thời. Thơ bà làm sống lại vẻ đẹp của làng quê và thiên nhiên đất nước.

Bà tham gia Việt Minh năm 1945, từng là Bí thư huyện Hội phụ nữ 4 huyện thời đó: Việt Yên, Lục Ngạn, Dắc Sơn, Hữu Lũng (tỉnh Bắc Giang khi ấy), Ủy viên thường vụ Tỉnh hội phụ nữ hai tỉnh Bắc Giang và Lạng Sơn. Thơ của bà lúc này nói lên tâm tình và hình ảnh người phụ nữ ở hậu phương, nhiều người đã anh dũng vượt lên đau xót và xa cách, gánh chịu những hy sinh thầm lặng, góp phần vào thắng lợi của dân tộc.

Thời kỳ chống Mỹ, thơ bà mở rộng đề tài và cảm xúc, tái hiện những nét đẹp của cuộc sống mới, chủ nghĩa yêu nước và anh hùng của con người Việt Nam. Bà là một trong những hội viên đầu tiên của Hội Nhà văn Việt Nam (năm 1957), ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khóa I và II).

Dường như những người con gái “tài hoa” đều “bạc mệnh” như hai câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du: “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Tình duyên của nữ sĩ cũng lắm trắc trở để rồi chặng cuối cuộc đời là những chuỗi ngày buồn vô tận. Bà trải qua tất cả sáu mối tình đến cuộc tình cuối cùng kết hôn với bác sĩ Bùi Viên Dinh nhưng cuộc đời lại lắm trớ trêu, trong ngôi nhà của hai vợ chồng lại thiếu mất nụ cười trẻ thơ. Cuộc sống cô quạnh đến tuổi xế chiều.

Tác phẩm tiêu biểu của bà như: Bức tranh quê (thơ, 1939), Xưa (thơ, in chung, 1942), Hương xuân(thơ, tin chung, 1944), Theo cánh chim câu (thơ, 1960),…

Nữ sĩ Anh Thơ

Ngân Giang (1916 – 2002)

Nữ thi sĩ Ngân Giang (1916 – 2002), tên thật là Đỗ Thị Quế, xuất thân trong một gia đình Nho học tại phố Hàng Trống, Hà Nội. Ngoài ra, bà còn có các bút danh khác: Hạnh Liên, Đỗ Quế Anh, Nguyệt Quyên.

Ông ngoại bà là hậu duệ của chúa Trịnh Sâm, ông nội là một nho sĩ nổi tiếng Bắc Hà, bạn thân của thi hào Nguyễn Du, cha bà cũng là người nổi tiếng. Mới lên 8 tuổi, bà đã có bài thơ đầu tiên tên “Vịnh Kiều” đăng trên báo Đông Pháp với bút danh Nguyệt Quyên. Năm 16 tuổi, bà in tập thơ đầu Giọt lệ xuân, bút danh Hạnh Liên, nhà xuất bản Tân Dân ấn hành.

Năm 20 tuổi, bà viết cho tờ Ngọ báo, Bắc Hà. Năm 21 tuổi, bà có thơ in chung trong cuốn Duyên văn. Khi 22 tuổi, bà rời Hà Nội vào Sài Gòn, viết cho Điện Tín nhật báo, và báo Mai. Sau đó, bà trở ra Hà Nội viết cho Tiểu thuyết thứ bảy, Phổ thông bán nguyệt san, Đàn bà… Năm 1939, thi phẩm “Trưng nữ vương” ra mắt, gây tiếng vang trên thi đàn. Đầu năm 1944, bà tham gia mặt trận Việt Minh. Cũng trong năm này, bà cho in tập thơ Tiếng vọng sông Ngân.

Năm 1945, bà bị bắt và bị giam một tháng. Khi được tha, bà tham gia giành chính quyền rồi được cử làm Trưởng đoàn phụ nữ Cứu quốc Hà Nội, sau phụ trách Phòng Tuyên truyền đường lối chính sách của Mặt trận Việt Minh. Năm 1946, Ngân Giang phụ trách Ban Lễ tân Bộ Nội vụ. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, bà ra chiến khu công tác tại Sở tuyên truyền liên khu I.

Sau đó, bà quay về Hà Nội, làm thơ đăng trên các báo Hồ Gươm, Quê hương, Tia sáng, Giang sơn… ký bút danh Nàng không tên. Năm 1957, bà được kết nạp vào Hội Nhà Văn Việt Nam, làm việc tại Hội. Bà vào Hợp tác xã thêu ren. Khi không còn đủ sức, bà mở quán bán hàng nước đến khi mất. Bà là mẹ của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Nữ sĩ Ngân Giang nổi tiếng là một nhà thơ nữ thời tiền chiến và góp cho đời nhiều áng thơ hay lại bị các nhà phê bình văn học lãng quên. Điều ấy có phải ứng với bốn chữ mà ta vẫn thường hay nói “tài hoa bạc mệnh”.

Trong sự nghiệp sáng tác, bà vẫn gắn bó với thể thơ Đường luật hoặc các thể thơ dân tộc trong khi nhiều nhà thơ lãng mạn cùng thời chịu ảnh hưởng của văn chương phương Tây. Nguồn mạch chủ yếu trong thơ bà là nỗi buồn man mác của những mối tình dang dở, bất hạnh.

Tác phẩm tiêu biểu như: Giọt lệ xuân (nhật ký và thơ dưới bút danh Hạnh Liên), Nhà xuất bản Tân Dân 1932; Tiếng vọng sông Ngân, Nhà xuất bản Lê Cường 1944; Ba tập Thơ Ngân Giang, Nhà xuất bản Phụ Nữ 1989 – Nhà xuất bản Trẻ 1991 – Nhà xuất bản Phụ Nữ 1994….

Nữ thi sĩ Ngân Giang lúc tuổi già (tay trái)

Xuân Quỳnh (1942 – 1988)

Xuân Quỳnh tên đầy đủ là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, sinh tại xã Văn Khê, thị xã Hà Đông, Hà Nội. Bà xuất thân trong một gia đình công chức, mẹ mất sớm, bố thường xuyên công tác xa, Xuân Quỳnh được bà nội nuôi dạy từ nhỏ đến khi trưởng thành. Năm 1956, Xuân Quỳnh được tuyển vào Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và được đào tạo thành diễn viên múa. Bà đã nhiều lần đi biểu diễn ở nước ngoài và dự Đại hội thanh niên sinh viên thế giới năm 1959 tại Vienna (Áo).

Từ năm 1962 đến 1964, Xuân Quỳnh học Trường bồi dưỡng những người viết văn trẻ (khoá I) của Hội Nhà văn Việt Nam. Sau khi học xong, làm việc tại báo Văn nghệ, Báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân Quỳnh là hội viên từ năm 1967, ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá III. Năm 1973, Xuân Quỳnh kết hôn với nhà viết kịch, nhà thơ Lưu Quang vũ (trước đó, Xuân Quỳnh kết hôn lần đầu với một nhạc công của Đoàn Văn công nhân dân Trung ương và đã ly hôn).

Từ năm 1978, Xuân Quỳnh làm biên tập viên Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Xuân Quỳnh mất ngày 28/8/1988 trong một vụ tai nạn giao thông tại Hải Dương, cùng với chồng và con trai Lưu Quỳnh Thơ mới 13 tuổi. Bà là một nữ nhà báo, nhà thơ nổi tiếng với các bài thơ được rất nhiều người yêu thích như: Thuyền và biển, Sóng, Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng an… Bà được truy tặng Giải thưởng Nhà nước và Giải thưởng Hồ chí Minh vì những thành tựu cho nền văn học Việt Nam với hai tập thơ: Lời ru trên mặt đất và Bầu trời trong quả trứng.

Thơ Xuân Quỳnh giàu cung bậc cảm xúc khi hạnh phúc đắm say dâng trào, khi lại đau khổ, suy tư, dè dặt của người phụ nữ hết lòng trong tình yêu. Những tác phẩm của bà luôn gần gũi bởi nó xuất phát từ trái tim chân thành, sâu sắc và xúc cảm của một người phụ nữ trên ba cương vị – thi sĩ, người vợ và một người mẹ.

Xuân Quỳnh

Phan Thị Thanh Nhàn (sinh năm 1943)

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Bà làm thơ từ sớm, đầu thập niên 1960 đã có thơ đăng báo. Năm 1969, bài thơ Hương thầm của bà đoạt giải nhì cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Bà là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Ủy viên Ban chấp hành Hội trong giai đoạn 2001 – 2005. Ngoài làm thơ, bà còn viết báo, truyện ngắn, truyện cho thiếu nhi. Phan Thị Thanh Nhàn kết hôn với nhà thơ Thi Nhị (đã mất năm 1979). Hiện nay, bà đang sống cùng con gái tại Hà Nội.

Ngoài làm việc tại báo Người Hà Nội, bà viết nhiều bài thơ tình và các chủ đề khác. Cùng với năm tháng, thơ tình của bà từ nhẹ nhàng, hồn nhiên chuyển sang giàu trải nghiệm, trăn trở nhưng bao dung và độ lượng hơn. Phong cách nghệ thuật thơ Phan Thị Thanh Nhàn cảm xúc chân thành, ngôn ngữ thơ dung dị, gần gũi, vì thế chiếm được cảm tình của rất đông bạn đọc. Bài thơ Hương thầm của bà đã được nhạc sĩ Vũ hoàng phổ nhạc năm 1984 và càng trở nên nổi tiếng, lan toả vang xa hơn. Bà được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2007.

Tác phẩm tiêu biểu như: Tháng giêng hai (thơ, 1969), Hương thầm (thơ, 1973), Chân dung người chiến thắng (thơ, 1977), Bông hoa không tặng (thơ, 1987),…

Nhà thơ Phan Thị Thanh Nhàn

Lâm Thị Mỹ Dạ (sinh năm 1949)

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh năm 1949, tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Bà được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật vào năm 2007.

Bà làm việc tại Ty văn hóa Quảng Bình, năm 1978 đến 1983 học Trường viết văn Nguyễn Du. Sau đó bà làm phóng viên, biên tập viên tạp chí Sông Hương (của Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế). Bà là ủy viên Ban chấp hành Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa III, ủy viên Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam khóa V. Hiện bà đang sống tại thành phố Huế, chồng bà – Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng là một nhà văn, nhà thơ rất nổi tiếng.

Ở nhà thơ Mỹ Dạ, ta có thể thấy âm hưởng chính trong thơ xuất phát từ những giai điệu trầm, nhẹ, đằm thắm, không ồn ào nhưng lại khỏe mạnh không giống ở những nhà thơ nữ khác. khi triển khai ý thơ, bà thường lấy nội dung làm trọng tâm, làm chủ được ngòi bút, không để ngôn từ trói buộc suy nghĩ.

Tác phẩm tiêu biểu của bà như: Trái tim sinh nở (thơ, 1974), Bài thơ không năm tháng (thơ, 1983), Hái tuổi em đầy tay (thơ, 1989), Mẹ và con (thơ, 1994),…

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: