Trong vô và tác phẩm thơ của văn hào Nguyễn Công Trứ, việc lựa chọn những bài thơ nổi bật, ảnh hưởng nhất, để thể hiện sự đa dạng cả về nội dung lẫn tinh thần nghệ thuật, đôi khi gây khó khăn cho những ai muốn tìm hiểu về ông và tác phẩm của ông.

Bạn có từng cảm thấy bất ngờ và hoang mang trước sự đa dạng phong cách và thông điệp của Nguyễn Công Trứ qua các bài thơ của ông? Bạn muốn khám phá những ấn tượng ấn tượng nhất của anh mà không biết bắt đầu từ đâu?

Trong bài viết “Đầu bài thơ của Nguyễn Công Trứ,” chúng tôi đã tổng hợp và lựa chọn những tác phẩm thơ xuất sắc nhất của danh hoạ Nguyễn Công Trứ. Từ những bài thơ trữ tình đầy cảm xúc, cho đến những tác phẩm châm biếm sắc bén, chúng tôi sẽ đưa bạn vào hành trình khám phá những nét đẹp tinh tế và tri thức sâu sắc trong thế giới thơ ca của ông.

Qua đó, bạn sẽ có cái nhìn toàn diện hơn về sự đa dạng và sức ảnh hưởng của tác phẩm thơ Nguyễn Công Trứ trong văn hóa và nghệ thuật Việt Nam.

Bài Ca Ngất Ngưỡng: Từ Ước Mơ Trong Cuộc Sống

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.

Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,

Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Lúc bình Tây, cờ đại tướng,

Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.

Đô môn giải tổ chi niên,

Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.

Kìa núi nọ phau phau mây trắng,

Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.

Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,

Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.

Được mất dương dương người tái thượng,

Khen chê phơi phới ngọn đông phong.

Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,

Không Phật, không tiên, không vướng tục.

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,

Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Trong triều ai ngất ngưởng như ông!

Nguồn: Lê Thước, Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Lê Văn Tân xuất bản, 1928

Trong bài thơ này, Nguyễn Công Trứ đã khắc họa một bức tranh sống sắc nét về ước mơ và khát vọng trong cuộc sống. Tác giả sử dụng từ ngữ tinh tế để thể hiện sự cao đầu, khao khát thành công và tinh thần không ngừng trỗi dậy trong mọi cảnh quay.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Chí Làm Trai: Truyền Thông Của Điều Tốt Đẹp

Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,

Nợ tang bồng vay giả, giả vay.

Chí làm trai nam bắc đông tây,

Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.

Nhân sinh tự cổ thuỳ vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Đã hẳn rằng ai nhục với ai vinh,

Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.

Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,

Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.

Chí những toan dời núi lấp sông,

Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.

Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,

Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo.

Thảnh thơi thơ túi, rượu bầu.

Nguồn: Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề, Việt Nam ca trù biên khảo, Nhà ở Văn Khoa, Sài Gòn, 1962

Chí Làm Trai, gương Gương Sáng, mang thông điệp về lòng dũng cảm, trách nhiệm và lòng tốt đẹp của người làm trai. Từ tác phẩm này, chúng ta có thể rút ra những bài học về đạo đức và tinh thần trách nhiệm trong cuộc sống hàng ngày.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Đi Thị Tự Vịnh: Tiếng Nói Của Sự Kiện Kiên Trì

Đi không, há lẽ trở về không?

Cái nợ cầm thư phải trả xong!

Rắp mượn điền viên vui tuế nguyệt

Trót đem thân thế hẹn tang bồng

Đã mang tiếng ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Trong cuộc trần ai, ai dễ biết?

Rồi ra mới rõ mặt anh hùng

Sách Văn đàn bảo giám chép tiêu đề là Đi thi.

Nguồn: Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983

Tác phẩm Đi Thi Tự Vịnh mang thông điệp về sự kiên trì và nỗ lực vượt qua khó khăn trong cuộc hành trình chinh phục mục tiêu. Từ những dòng thơ tình tế tế, Nguyễn Công Trứ đã gửi gắm tình thần không bao giờ từ bỏ và khao khát thành công.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Trò Đời: Góc Nhìn Sâu Sắc Về Cuộc Sống

Một lưng một vốc kém chi mô,

Cho biết chanh chua khế cũng chua.

Ðã chắc bữa trưa chừa bữa tối,

Mà tham con giếc tiếc con rô.

Trăm điều đổ tội cho nhà oản,

Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa.

Khó bó cái khôn còn nói khéo,

Dầu ai có quấy vấy nên hồ.

Nguồn: Nguyễn Công Trứ – Cuộc đời và Thơ, Đoàn Tử Huyến biên soạn, tr. 16, NXB Lao Động, 2011

Trò đời của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm mang đậm tính triết học, nó sâu rộng tìm hiểu và phân tích cuộc sống, xã hội và con người. Từ những nơi kề cận nhau, tác giả đưa ra cái nhìn sâu sắc về bản chất của thế giới xung quanh.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Chí Nam Nhi: Ánh Sáng Tinh Thần

Thông minh nhất nam tử,

Yếu vi thiên hạ kỳ.

Trót sinh ra thời phải có chi chi,

Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu.

Đố kị sá chi con Tạo,

Nợ tang bồng quyết trả cho xong.

Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,

Làm cho rõ tu mi nam tử.

Trong vũ trụ đã đành phận sự,

Phải có danh mà đối với núi sông.

Đi không chẳng lẽ về không?

Được sưu tầm từ nhiều nguồn tài liệu uy tín, tác phẩm “Chí Nam Nhi” của Nguyễn Công Trứ được chế tác và lan tỏa với sự hỗ trợ từ các nguồn đáng tin cậy. Cụ thể, danh sách nguồn bao gồm:

  1. Dương Quảng Hàm – Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển (Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Hà Nội, 1951)
  2. Thơ Văn Nguyễn Công Trứ – Trương Chính Biên Soạn & Giới Thiệu (NXB Văn Học, 1983)
  3. Đỗ Đoàn Bằng, Đỗ Trọng Huề – Việt Nam Ca Trữ Biên Khảo (Nhà In Văn Khoa, Sài Gòn, 1962)

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Hàn Nho Phong Vị Phú: Hương Vị Thời Gian

Chém cha cái khó!

Chém cha cái khó!

Khôn khéo mấy ai?

Xấu xa một nó!

Lục cực bày hàng sáu, rành rành kinh huấn chẳng sai,

Vạn tội lấy làm đầu, ấy ấy ngạn ngôn hẳn có.

Kìa ai:

Bốn vách tường mo,

Ba gian nhà cỏ.

Đầu kèo mọt đục vẽ sao,

Trước cửa nhện giăng màn gió.

Phên trúc ngăn nửa bếp nửa buồng,

Ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ.

Đầu giường tre, mối dũi quanh co,

Góc tường đất, giun đùn lố nhố.

Bóng nắng dọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô,

Hạt mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó.

Trong cũi, lợn nằm gặm máng, đói chẳng muốn kêu,

Đầu giàn, chuột cậy khua niêu, buồn thôi lại bỏ.

Ngày ba bữa, vỗ bụng rau bịch bịch, người quân tử ăn chẳng cầu no,

Đêm năm canh, an giấc ngáy kho kho, đời thái bình cửa thường bỏ ngỏ.

Ấm trà góp lá bàng lá vối, pha mùi chát chát chua chua,

Miếng trầu têm vỏ mận vỏ dà, buồn miệng nhai nhai nhổ nhổ.

Áo vải thô nặng trịch, lạnh làm mền, nực làm gối, bốn mùa thay đổi bấy nhiêu,

Khăn lau giắt đỏ lòm, giải làm chiếu, vận làm quần, một bộ ăn chơi quá thú.

Đỡ mồ hôi, võng lác, quạt mo,

Chống hơi đất, dép da, guốc gỗ.

Miếng ăn sẵn cà non mướp luộc, ngon khéo là ngon,

Đồ chơi nhiều quạt sậy điếu tre, của đâu những của.

Đồ chuyên trà, ấm đất sứt vòi,

Cuộc uống rượu, be sành chắp cổ.

Đồ cổ khí bức tranh treo trên vách, khói bay lem luốc, mầu thuỷ mạc lờ mờ,

Của tiểu đồng pho sách gác đầu giàn, gián nhấm lăm nhăm, dấu thổ châu đo đỏ.

Cỗ bài lá, ba đời cửa tướng, hàng văn sách mập mờ,

Bàn cờ săng, bảy kiếp nhà ma, chữ nhật chữ điền xiêu xó.

Lộc nhĩ điền lúa chất đầy rương,

Phương tịch cốc khoai vừa một rỏ.

Tiêu dụng lấy chi mà phao phóng, thường giữ ba cọc ba đồng,

Mùa màng dành để có bao nhiêu, chừng độ một chiêng một bó,

Mỏng lưng xem cũng không giầu,

Nhiều miệng lấy chi cho đủ.

Đến bữa chưa sẵn bữa, con trẻ khóc dường ong,

Qúa kỳ lại hẹn kỳ, nhà nợ kêu như ó.

Thuốc men rắp bòn chài gỡ bữa, song nghĩ câu ý dã, thế nào cho đáng giá lương y,

Thầy bà mong dối trá kiếm ăn, lại nghĩ chữ dũng như, phép chi được nổi danh pháp chủ.

Quẻ dã hạc toan nhờ lộc thánh, trút muối đổ biển, ta chẳng bõ bèn,

Huyệt chân long toan bán đất trời, ngôi mả táng cha, tìm còn chửa chỗ.

Buôn bán rắp theo nghề đỏ, song lạ mặt, chúng hòng rước gánh, mập mờ nên hàng chẳng có lời,

Bạc cờ toan gỡ con đen, chưa sẵn lưng, làng lại dành nơi, hỏi gạn mãi giạm không ra thổ.

Gấp khúc lươn, nên ít kẻ yêu vì,

Gương mắt ếch, biết vào đâu mượn mõ.

Đến lúc niên chung nguyệt quý, lấy chi tiêu đồng nợ đồng công?

Gặp khi đường xẩy chân cùng, nên phải tới cửa này cửa nọ.

Thân thỉ to to nhỏ nhỏ, ta đã mỏi cẳng ngồi trì,

Dần dà nọ nọ kia kia, nó những vuốt râu làm bộ.

Thầy tớ sợ men tìm đến cửa, ngảnh mặt cúi đầu,

Chị em e vất lấm vào lưng, chìa môi nhọn mỏ.

Láng giềng ít kẻ tới nhà,

Thân thích chẳng ai nhìn họ.

Mất việc toan dở nghề cơ tắc, tủi con nhà mà hổ mặt anh em,

Túng đường mong quyết chí cùng tư, e phép nước chưa nên gan sừng sỏ.

Cùng con cháu thuở nói năng chuyện cũ, dường ngâm câu lạc đạo vong bần,

Gặp anh em khi bàn bạc sự đời, lại đọc chữ vi nhân bất phú.

Tất do thiên, âu phận ấy là thường,

Hữu kỳ đức, ắt trời kia chẳng phụ.

Tiếc tài cả phải phạn ngưu bản trúc, dấu xưa ông Phó ông Hề,

Cần nghiệp kho khi tạc bích tụ huỳnh, thuở trước chàng Khuông chàng Vũ.

Nơi thành hạ đeo cần câu cá, kìa kìa người quốc sĩ Hoài âm,

Chốn lý trung xách thớt chia phần, nọ nọ đấng mưu thần Dương võ.

Khó ai bằng Mãi Thần Mông Chính, cũng có khi ngựa cưỡi dù che,

Giàu ai bằng Vương Khải Thạch Sùng, cũng có hội tường xiêu ngói đổ.

Mới biết:

Khó bởi tại trời,

Giàu là cái số.

Dầu ai ruộng sâu trâu nái, đụn lúa kho tiền,

Cũng bất quá thủ tài chi lỗ.

Nguồn: Văn đàn giám giám, Trần Trung Viên sưu tập 1926, Hư Chủ hiệu chính 1968, Xuân Thu về lại California

Hàn Nho Phong Vị Phú là một tác phẩm lấy cảm hứng từ thời gian xa xưa, mang đến hương vị của quá khứ và tâm hồn người Việt. Từ ngữ và cảm xúc trong bài thơ chạm đến sâu thăm thẳm ký ức và tư duy của người đọc.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Cây Thông

Ngồi buồn mà trách ông xanh

Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Cây Cau

Ơn chúa vun trồng kể xiết bao

Một ngày càng một rấn lên cao

Lưng đeo đai bạc, sương nào nhuốm?

Đầu đội tàn xanh, nắng chẳng vào

Buồng chất cháu con khôn xiết kể

Nhà nhiều quan khách dễ khuyên chào

Kình thiên một cột giơ tay chống

Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao.

Nguồn: Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983

Cây Thông và Cây Cau là những hình ảnh được Nguyễn Công Trứ sử dụng để truyền đạt những ý nghĩa sâu xa về cuộc sống và tâm hồn con người. Từng dòng từng dòng thơ đan xen nên bức tranh tươi sáng và đầy hấp dẫn.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Khuyên Người Đời: Lời Chia Sẻ Tâm Huyết

Cho hay thiên hạ khéo xem gương

Hễ khó thời thôi mấy kẻ màng

Miệng nói đã đành mua chuyện ghét

Tay không chưa dễ ép người thương

Khéo khôn ai cũng tranh phần được

Trong sạch ta thời giữ mực thường

Ði lại chẳng qua thời với mệnh

Cũng đừng thắc mắc, chớ lo lường.

Nguồn: Việt Nam thi văn hợp tuyển, Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, Hà Nội, 1951

Khuyên Người Đời là những lời chia sẻ tâm huyết của Nguyễn Công Trứ, truyền đạt những điều kỳ diệu của cuộc sống và tư duy. Từ những lời khuyên, người đọc có thể rút ra những bài học và tư duy tích cực cho cuộc sống.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Phận Anh Nghèo: Tiếng Gọi Của Tâm Hồn Giản Dị

Nói phô nghe cũng giỏi con giai

Vì nỗi không tiền hóa dở ngài

Khôn khéo dễ hầu bưng khắp miệng

Khen chê thôi cũng gác ngoài tai

Tính quen mặt đó, đà ghe kẻ

Song biết lòng cho, dễ mấy ai?

Ðã thế thời thôi thôi mặc thế

Ði lâu rồi mới biết đường dài.

Nguồn: Thơ văn Nguyễn Công Trứ do Trương Chính biên soạn & giới thiệu, NXB Văn học, 1983

Trong tác phẩm Bổn phận Anh Nghèo, Nguyễn Công Trứ kể về cuộc sống giản dị mà tâm hồn vẫn cuồng nhiệt, niềm tự hào và tình yêu đối với quê hương. Từng quãng từ thơ khắc khoải tình cảm và khao khát bình dị của con người.

Danh sách những bài thơ ấn tượng của Nguyễn Công Trứ

Các câu hỏi thường gặp

1. Nguyễn Công Trứ viết những bài thơ nổi tiếng nào?

Nguyễn Công Trứ, một nhà thơ tài hoa của Việt Nam thế kỷ XVII, đã để lại những tác phẩm vĩ đại như “Chí Nam Nhi,” “Hàn Nho Phong Vị Phú,” “Phận Anh Nghèo” và nhiều bài thơ khác. Những tác phẩm này thể hiện tinh thần sáng tạo và triết lý cuộc sống của tác giả.

2. Những tác phẩm của Nguyễn Công Trứ mang thông điệp gì?

Các tác phẩm của Nguyễn Công Trứ thường chứa đựng những thông điệp sâu sắc về cuộc sống, tâm hồn con người và triết lý. Ông thường thể hiện lòng tự hào về quê hương, tình yêu thương đối với cuộc sống và tinh thần đạo đức. Những thông điệp này được truyền tải qua từng dòng thơ tinh tế và chất ngất.

3. Tại sao tác phẩm “Chí Nam Nhi” được coi là một tấm gương đạo đức?

“Chí Nam Nhi” là một tác phẩm thể hiện lòng dũng cảm, trách nhiệm và đạo đức của người làm trai. Bài thơ này thường được sử dụng để truyền dạy những giá trị tốt đẹp về trách nhiệm và lòng tự hào về việc làm trai. Tinh thần đức hạnh trong bài thơ là nguồn cảm hứng quý báu cho thế hệ trẻ.

4. Tại sao “Hàn Nho Phong Vị Phú” mang ý nghĩa lịch sử?

“Hàn Nho Phong Vị Phú” là một tác phẩm thể hiện tình yêu và tâm hồn của người Việt Nam đối với quá khứ và lịch sử dân tộc. Từng câu thơ trong bài mang đến hình ảnh về văn hóa, truyền thống và những giai đoạn quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Bản chất lịch sử của tác phẩm khiến nó trở thành một nguồn tài liệu quý báu cho người nghiên cứu văn hóa và lịch sử.

5. Tại sao “Phận Anh Nghèo” được yêu thích?

“Phận Anh Nghèo” là tác phẩm mà nhiều người yêu thích bởi vẻ đẹp giản dị và tình cảm chân thành mà nó mang lại. Tác giả thể hiện tình yêu đối với cuộc sống bình dị và tâm hồn của người nghèo. Bài thơ này gợi nhắc về giá trị tinh thần của sự bình tĩnh, kiên nhẫn và biết ơn trong cuộc sống.

Chắc chắn rằng cuộc khám phá những bài thơ đỉnh cao của Nguyễn Công Trứ đã mang lại một hành trình tinh thần và tri thức đầy cảm hứng.

Đây là một cơ hội thú vị để lắng nghe tiếng thơ đầy sức sống, nhìn vào tâm hồn và tư duy của một trong những bậc danh họa văn chương nổi tiếng của Việt Nam. Việc tiếp xúc với những tác phẩm thơ đa dạng và sâu sắc này sẽ giúp bạn có cái nhìn sâu sắc hơn về những khía cạnh phong phú của cuộc đời và con người qua từng dòng thơ ca.

Hãy để tinh thần văn chương của Nguyễn Công Trứ tiếp tục truyền cảm hứng và tác động trong thế hệ hiện tại và tương lai.

Đánh giá post

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

error: